TƯ VẤN QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
Sở hữu trí tuệ là phạm trù rộng, bao gồm ba lĩnh vực khác nhau gồm: quyền tác giả và quyền liên quan; quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng. Trong lĩnh vực công nghiệp và giống cây trồng, các quyền phải được xác lập bằng việc cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, quyền tác giả và quyền liên quan được bảo hộ theo cơ chế các quyền tự động phát sinh ngay sau khi tác phẩm được hình thành. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung tư vấn về quyền tác giả và quyền theo pháp luật Việt Nam.
Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là những tc phẩm thuộc về văn học, nghệ thuật và khoa học. Pháp luật Việt Nam quy định về các loại hình tác phẩm đó bao gồm: văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc kí tự khác, bài phát biểu, bài giảng, tác phẩm sân khấu, điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, chương trình máy tính. Về thuật ngữ “tác giả”, mặc dù Luật SHTT năm 2005, sửa đổi năm 2009 không định nghĩa thuật ngữ này nhưng Khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan ( Nghị định 22/2018/NĐ-CP) quy định “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”. Tại khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, tác giả có những quyền gì? Theo pháp luật Việt Nam, tác giả có quyền nhân thân và quyền tài sản.
Quyền nhân thân bao gồm:
- Quyền đứng tên tác giả trên bản gốc và bản sao tác phẩm. Tác giả có quyền được lựa chọn đứng tên thật hay bút danh hoặc có thể để tác phẩm của mình ở “tình trạng khuyết danh”. Quyền này của tác giả là quyền yêu cầu được ghi tên tác giả trên bản gốc và bản sao tác phẩm, quyền được nêu tên khi biểu diễn và phát sóng tác phẩm.
- Quyền đặt tên cho tác phẩm.
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm. Tác giả có quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác khai thác, sửa chữa tác phẩm của mình, ngăn chặn các hành vi xuyên tạc, xâm phạm tới uy tín, danh dự của mình.
- Quyền công bố tác phẩm của mình. Đây là quyền có thể chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác, tuy nhiên, việc công bố tác phẩm hay chưa thì tùy thuộc vào quyết định của tác giả. Đây cũng là quyền nhân thân duy nhất mà tác giả có thể để lại thừa kế.
Quyền tài sản của tác giả là quyền độc quyền do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng hoặc chuyển giao. Quyền tài sản bao gồm:
- Quyền làm tác phẩm phái sinh: là quyền do tác giả tự thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc sử dụng tác phẩm của mình để sáng tạo ra tác phẩm mới, đây gọi là tác phẩm phái sinh ( ví dụ: dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm chuyển thể, cải biên, phóng tác, phiên âm, chú giải). Người làm tác phẩm phái sinh chỉ có quyền tác giả khi không gây phương hại tới quyền tác giả của tác phẩm đã được sử dụng để tạo ra tác phẩm phái sinh. Việc sử dụng một tác phẩm để sáng tạo tác phẩm phái sinh phải có sự thỏa thuận trước khi sử dụng.
- Quyền sao chép tác phẩm. Xuất bản một tác phẩm, ghi âm, ghi hình bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết trình, vẽ lại tranh,… đều là hình thức sao chép thuốc quyền sao chép tác phẩm. Việc sao chép một phần hay toàn bộ tác phẩm đều phải được đồng ý của tác giả.
- Quyền biểu diễn tác phẩm là quyền biểu diễn trước công chúng, ở bất kỳ địa điểm và thời gian nào với số lượng quần chúng đủ lớn, ví dụ như: biểu diễn nhạc kịch tại nhà hát, ngâm thơ trên đài phát thanh,… Ngoài ra, nó còn bao gồm cuộc biểu diễn gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình được phát qua các thiết bị tương thích ở các địa điểm kinh doanh, thương mại như trên máy bay, nhà hàng, khách sạn…
- Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc, bản sao tác phẩm. Quyền này được thực hiện bằng việc sử dụng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có hể tiếp cận được để bán hoặc các hình thức chuyển nhượng khác.
- Quyền truyền đạt tác phẩm là quyền đưa tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ hình thức, phương tiện khác mà công chúng có thể tiếp cận được tại bất kỳ thời gian và địa điểm nào do dọ lựa chọn.
- Quyền cho thuê tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính là việc cho thuê để sử dụng có thời hạn do chủ sở hữu quyền tác giả và bên sử dụng thỏa thuận theo hợp đồng. Đây là quyền độc quyền của chủ sở hữu.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đặt ra những hạn chế về quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hay còn được hiểu như là các ngoại lệ của quyền tác giả. Giới hạn quyền tác giả là quy định liên quan tới việc khai thác, sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bảng ghi âm hình, chương trình sóng các trường hợp đặc biệt, cụ thể nhằm đáp ứng các nhu cầu chính đáng phục vụ công tác thông tin, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chính sách xã hội. Hình thức chủ yếu của những hạn chế này là các trường hợp sử dụng tự do các tác phẩm đã công bố, trong đó có trường hợp phải thanh toán tiền sử dụng, có trường hợp không phải thanh toán tiền sử dụng. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam xác định giới hạn cho quyền tác giả bằng việc quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao và các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Giới hạn quyền tác giả trong những trường hợp này giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả như: nghiên cứu khoa học, giảng dạy,... được dễ dàng hơn. Các trường hợp giới hạn quyền tác giả bao gồm:
- Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao ( Điều 25 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009): Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính); Trích dẫn hợp lí tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại; Sao chép 1 bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu (trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính); Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kì hình thức nào; Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
- Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Điều 26 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng; Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Pháp luật Việt Nam quy định thời hạn đó là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Trong trường hợp có đồng tác giả thì thời hạn 50 năm được tính từ khi tác giả cuối cùng chết. Đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh thì thời hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm công bố lần đầu; Trong thời hạn 25 năm kể từ khi được định hình, nếu tác phẩm loại này chưa công bố thì thời hạn bảo hộ là 100 năm, tính từ khi tác phẩm được định hình. Đối với tác phẩm khuyết danh, khi danh tính của tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc hộ được tính theo nguyên tác đời người, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Thời điểm kết thúc của thời hạn bảo hộ vào lúc 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm kết thúc thời hạn bảo hộ.
Hy vọng những thông tin mà Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam cung cấp trên đây sẽ mang lại giá trị hữu ích cho Quý khách hàng.
Thông tin chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn
( L.Đ.T.Thủy)