TƯ VẤN ĐÀM PHÁN SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG
TƯ VẤN ĐÀM PHÁN SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG
Trong hoạt động thương mại thì hợp đồng thương mại còn đóng vai trò là một phương tiện rất quan trọng để bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giúp các bên kiểm soát và dự báo được lợi nhuận cũng như các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Mặc dù hợp đồng có tầm quan trọng rất lớn tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng tới việc đàm phán hợp đồng, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó đã khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng bất lợi và gặp phải những rủi ro pháp lý không đáng có. Vậy làm thế nào để đàm phán hợp đồng hiệu quả nhất.?
I. Căn cứ pháp lý
-Luật Dân sự 2015
- Luật thương mại 2005
II. Nội dung tư vấn
1. Đàm phán hợp đồng
Đàm phán hợp đồng: Là thực hiện một hoặc nhiều cuộc đối thoại, thương lượng giữa 2 bên hoặc nhiều bên có ý muốn quan hệ đối tác với nhau nhằm mục đích tiến đến một thoả thuận chung đáp ứng yêu cầu cá nhân hoặc yêu cầu hợp tác kinh doanh của các bên tham gia đàm phán.
Ở giai đoạn đàm phán, chưa phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đàm phán (chỉ khi ký kết hợp đồng mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ).
“Đàm phán hợp đồng” thường xảy ra trước “ký kết Hợp đồng”, nhưng cũng có thể xảy ra trong quá trình thực hiện Hợp đồng (trong các trường hợp đàm phán để sửa đổi, bổ sung Hợp đồng do tình hình khách quan mới phát sinh hoặc do ý chí của các bên bằng các “phụ kiện hợp đồng”, thường có dự liệu trong Hợp đồng chính).
2. Xác định nguồn luật điều chỉnh quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng:
Bộ luật dân sự, luật thương mại, luật chuyên ngành khá. Các văn bản luật liên quan theo từng lĩnh vực (Bộ Luật dân sự, Luật Xây dựng, Luật Lao động v.v…)
Về nguồn pháp luật điều chỉnh và có liên quan đến nội dung của hợp đồng: Ví dụ, nếu là hợp đồng mua bán hàng hoá, thì pháp luật có liên quan là những văn bản pháp luật về thương mại, dân sự, cụ thể là Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luât doanh nghiệp,.. các văn bản pháp luật hướng dẫn các Luật nêu trên; Nghị định hướng dẫn luật thương mại về mua bán hàng hoá, Nghị định quy định danh mục các mặt hàng hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện hoặc cấm kinh doanh. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì kiến thức về thói quen thương mại, thông lệ, tập quán quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các cam kết Quốc tế song phương, đa phương, và cam kết trong khu vực của Việt Nam, pháp luật liên quan đến địa vị pháp lý của các bên cũng là những kiến thức và thông tin rất quan trọng liên quan trực tiếp đến nội dung cũng như tính hợp pháp, hợp lệ của hợp đồng. Bên cạnh đó, những người liên quan trực tiếp đến quá trình soạn thảo, đàm phán hợp đồng còn phải rà soát, lưu ý đến toàn bộ những văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung, lĩnh vực của hợp đồng.
3. Nguyên tắc và phương thức đàm phán, giao kết hợp đồng.
3.1. Đảm bảo nguyên tắc tự do trong đàm phán:
- Xuất phát từ nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận và tự do giao kết hợp đồng. Có tự do đàm phán mới có tự do giao kết hợp đồng, mới có tự do cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
- Sự tự do đàm phán và giao kết hợp đồng là rất cần thiết nhưng không phải là tuyệt đối, mà phải dựa trên cơ sở điều chỉnh của pháp luật và còn để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đối tác.
3.2 Mời đàm phán:
- Việc gởi lời mời và việc chấp nhận lời mời đàm phán là bước khởi đầu của tiến trình đàm phán của các bên tham gia (bên đề nghị hoặc bên chấp nhận đề nghị).
- Việc khởi động ban đầu cho việc đàm phán có thể trực tiếp hay gián tiếp và có thể được thực hiện qua nhiều hình thức: bằng lời nói, quảng cáo trên các phương tiện truyền thông (báo chí, phát thanh, truyền hình), tờ rơi, áp phích, panô quảng cáo, tập tài liệu, brochures, catalogues…
- Lời mời đàm phán chỉ là khởi động ban đầu của một phía muốn giao dịch, nên chưa phải và không nên hiểu lầm là một đề nghị giao kết hợp đồng.
- Lời mời đàm phán thường gói gọn những thông tin có tính tổng hợp chung, chưa thật cụ thể và cũng chưa có cam kết phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cả bên mời và bên được mời.
- Vì chưa có giá trị pháp lý ràng buộc, nên bên mời đàm phán có thể rút lại hoặc thay đổi nội dung mời đàm phán trong mọi trường hợp kể, cả khi bên được mời chấp nhận hay chưa chấp nhận lời mời đàm phán.
- Trong suốt quá trình đàm phán, kể cả đến thời điểm kết thúc giai đoạn đàm phán, các bên vẫn có quyền có ý kiến thay đổi, đàm phán lại hoặc đàm phán bổ sung trước khi ký kết hợp đồng.
3.3 Đảm bảo không phát sinh trách nhiệm dân sự khi đàm phán bị thất bại:
- Không có qui định pháp lý nào ràng buộc quá trình đàm phán phải đạt được kết quả, nên các bên không phải chịu trách nhiệm một khi đàm phán bị thất bại.
- Mỗi bên trong đàm phán có quyền từ bỏ cuộc đàm phán, ngay cả vào giờ chót, mà không phải chịu bất cứ một trách nhiệm dân sự bồi thường cho phía bên kia các thiệt hại về tất cả loại chi phí phát sinh trong quá trình đàm phán, cả về thời gian và cơ hội kinh doanh bị mất đi.
- Nguyên tắc tự do đàm phán và không phải chịu trách nhiệm đối với trường hợp đàm phán thất bại được thừa nhận rộng rãi trên thế giới.
3.4 Sự điều chỉnh của luật pháp trong quá trình đàm phán hợp đồng:
Tuy nhiên, để phòng ngừa các rủi ro, đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên trong trường hợp có sự thiếu thiện chí của một bên trong đàm phán hoặc do thiếu thông tin cần thiết, cho nên phải có sự điều chỉnh của pháp luật trong giai đoạn đàm phán. Các bên đàm phán không thể sử dụng quyền tự do đàm phán một cách tuyệt đối, tuỳ thích
Nghĩa vụ đàm phán thiện chí: Dựa theo nguyên tắc thiện chí, trung thực trong quan hệ dân sự của BLDS Việt Nam. Hành động thiếu thiện chí của một bên gây thiệt hại cho bên kia sẽ đưa đến hậu quả bên gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự, cụ thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Một số qui định của pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (đảm bảo hội đủ 4 yếu tố: có hành vi trái pháp luật, lỗi của người gây thiệt hại, có thiệt hại xảy ra và có mối liên hệ nhân quả do hành vi trái pháp luật).
3.5 Nghĩa vụ cung cấp thông tin
- Về nguyên tắc, mỗi bên tham gia đàm phán phải có trách nhiệm tìm hiểu mọi thông tin liên quan đến giao dịch, tự bảo vệ quyền lợi của chính mình chứ không thể trông chờ vào thiện chí của phía bên kia. Nhưng họ cũng có thể chỉ cung cấp thông tin mà đối tác yêu cầu, lựa chọn thời điểm cung cấp có lợi nhất hoặc từ chối không cung cấp.
- Những thông tin có thể chính xác nhưng không đầy đủ và thường là không có thông tin về yếu điểm hay khuyết tật của đối tượng giao dịch.
- Luật pháp hiện đại của các nước có xu hướng tăng cường và cụ thể hoá nghĩa vụ thông tin, nghĩa vụ tư vấn giữa các bên tham gia đàm phán, đặc biệt của một bên là nhà chuyên môn đối với bên kia là người tiêu dùng, hay trong lĩnh vực chuyên môn khác
Luật Việt Nam không có qui định cụ thể về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quá trình đàm phán mà chỉ đề cập đến giao dịch được hình thành trên cơ sở thông tin sai lệch trong 2 trường hợp: bị nhầm lẫn và bị lừa dối.
3.6 Hợp đồng hoá giai đoạn đàm phán
Các bên đàm phán có thể ký kết với nhau một hoặc nhiều thỏa thuận nhằm mục đích lập kế hoạch đàm phán, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên thống nhất hoặc ghi nhận những nguyên tắc cơ bản cho việc đàm phán và ký kết các hợp đồng cụ thể về sau.
- Tất cả các biên bản thoả thuận, biên bản ghi nhớ (Memorandum of Understanding _ MOU) đều có chung đặc điểm là chúng đều là những hợp đồng thực sự nhưng được hình thành về mặt thời gian trước khi ký kết thoả thuận cuối cùng (mặc dù việc ký kết và thực hiện các thoả thuận này hoàn toàn không có nghĩa là hợp đồng cuối cùng sẽ được ký kết).
- Thông thường việc ký kết hợp đồng cuối cùng sẽ làm cho một số hợp đồng sơ bộ đương nhiên hết hiệu lực.
- Những điểm lợi cơ bản của việc ký kết các thỏa thuận, ghi nhớ sơ bộ (trước tời điểm ký kết hợp đồng) sau:
Xác định rõ mục đích của các bên ngay từ khi tham gia đàm phán;
Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia đàm phán được ghi rõ trong thỏa thuận sơ bộ.
Qui định chế tài (phạt, bồi thường thiệt hại) trong trường hợp không thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng sơ bộ; Các bên có thể thỏa thuận về vấn đề cung cấp thông tin trong đàm phán và bảo mật các thông tin đó
Các bên có thể thỏa thuận sẽ cùng nhau hoặc phối hợp để làm một số hoạt động nghiên cứu sơ bộ để tìm hiểu cơ hội và đánh giá tính khả thi của giao dịch định tiến hành;
Luật Việt Nam không qui định rõ nghĩa vụ thông tin hoặc tư vấn của bên cung cấp hàng hoá và dịch vụ. Việc ký kết các thoả thuận sơ bộ là cơ hội để các bên xác định với nhau nghĩa vụ này và tuyên bố rõ ràng mục tiêu mà mỗi bên mong muốn đạt được từ giao dịch.
Các bên có thể ấn định nghĩa vụ đàm phán, thậm chí là nghĩa vụ ký kết một số hợp đồng cụ thể
Các bên có thể điều chỉnh nội dung, phương thức có nghĩa vụ đàm phán và chế tài trong trường hợp một bên ngưng ngang không chịu đàm phán
Các bên có thể cam kết không đàm phán với một bên thứ 3 về một dự án tương tự hoặc sẽ cung cấp cho bên đàm phán tên tuổi của tất cả những bên tham gia đàm phán song song.
Trên đây là những ý kiến của chúng tôi. Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam hân hạnh đồng hành cùng khách hàng trong việc giải quyết mọi vấn đề pháp lý. Hãy liên hệ với chúng tôi để được sử dụng dịch vụ tư vấn một cách tốt nhất.
(Nguyễn Hoa)
Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn
---------------------------------------------
em thêm bài viết có liên quan:
Tư vấn về hợp đồng cho doanh nghiệp
Lưu ý trong quá trinhg đàm phán, soạn thảo hợp đồng
Những rủi ro pháp lý trong đàm phán hợp đồng thương mại và giải pháp phòng tránh