QUYỀN IM LẶNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Quyền con người và bảo đảm quyền con người luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vấn đề bảo vệ quyền cơ bản của các đối tượng yếu thế là người bị buộc tội, trao cho họ những quyền năng nhất định để họ có thể tự bảo vệ mình và nhận được sự phán xét công minh từ phía nhà nước, trong những quyền ấy quy định về “quyền im lặng “của người bị buộc tội luôn là vấn đề được quan tâm chú ý. Trước hết chúng ta cần phải hiểu quyền im lặng là gì ? nó được thể hiện như thế nào thông qua các quy định của pháp luật.
Quyền con người, quyền công dân đã được hiến định khá đầy đủ trong Hiến pháp 2013. Bộ Luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) Việt Nam năm 2015 đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản thực thi quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp 2013 như nguyên tắc "Suy đoán vô tội" (điều 13), "Xác định sự thật của vụ án" (điều 15), "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" (điều 16), "Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" (điều 26).
"Quyền im lặng" có được quy định trong BLTTHS 2015 không? Thực ra, trong BLTTHS 2015 không có khái niệm về "Quyền im lặng", mà chỉ có nội dung chứa nội hàm về "Quyền im lặng" được quy định về quyền của người bị buộc tội tại các điều 59 đến 62 BLTTHS. Quyền này của người bị buộc tội (gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được thể hiện như sau: "Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội". Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử. Đây chính là tinh thần cốt lõi của "Quyền im lặng" được thể hiện trong BLTTHS 2015. Điều này thể hiện sự khác biệt so với BLTTHS 2003, tại điều 49 và 50 (quy định về quyền của bị can, bị cáo), không có nội dung này.
Bên cạnh đó, tại các điều 59- 62 BLTTHS quy định về quyền im lặng của người bị buộc tội, theo đó họ có quyền trình bày lời khai trình bày ý kiến, có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc mình có tội. Đây là một trong những nội dung được bổ sung mới trong BLTTHS 2015, làm rõ hơn quyền im lặng của người bị buộc tội, bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung.
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm, xác định sự thật khách quan của vụ án thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng theo điều 10 BLTTHS 2003 (tương ứng điều 15 BLTTHS 2015) quy định về nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án: "Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội".
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ làm rõ chứng cứ có tội mà còn phải có trách nhiệm làm rõ những chứng cứ xác định bị can, bị cáo vô tội. Để chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ dựa vào lời khai của bị can, bị cáo mà phải xem xét tất cả chứng cứ, tài liệu có liên quan một cách khách quan, toàn diện.
Cũng tại điều 16 của Bộ luật này quy định: "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa."
+ "Quyền im lặng" đối với người bị tạm giữ được quy định tại điểm c, khoản 2, điều 59, bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người tạm giữ: "c) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;"
+ "Quyền im lặng" đối với bị can được quy định tại điểm e, khoản 2, điều 60, bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể "d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;"
+ "Quyền im lặng" đối với bị cáo được quy định tại điểm, khoản 2, điều 61, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể: "h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;"
Như vậy, lần đầu tiên "quyền im lặng" đã được thể hiện thành một trong các quyền quan trọng của người bị tạm giam, bị can, bị cáo theo đó họ không phải buộc đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Đây có thể xem là một bước tiến của luật tố tụng hình sự Việt Nam trong quá trình hội nhập với luật pháp và các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia. Có thể hiểu rằng trong quá trình tố tụng người bị tạm giam/Bị can/Bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc thừa nhận mình có tội. Trong phiên tòa, nếu xét thấy cơ quan tố tụng đưa ra những câu hỏi, bằng chứng bất lợi cho họ thì họ cũng có quyền giữ im lặng. Có thể xem quyền im lặng là một thành tựu quan trọng của nền tư pháp nhân loại, việc ứng dụng quyền im lặng là đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của tòa án.
Mọi ý kiến thắc mắc cần giải đáp và đóng góp xin vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn