CẦN CÓ CƠ CHẾ HỮU HIỆU BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO
uật Tố cáo hiện hành tuy mới được triển khai thực hiện được 4 năm, nhưng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Báo cáo Chính phủ về việc tổng kết 4 năm thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đã chỉ ra 12 vấn đề hạn chế, bất cập trong việc thực hiện Luật Tố cáo năm 2011, trong đó “các quy định về bảo vệ người tố cáo khó thực hiện, chưa tạo nên cơ chế pháp lý cần thiết để bảo vệ người tố cáo một cách hiệu quả và thực chất”.
Thực trạng việc bảo vệ người tố cáo thời gian qua
Dưới góc độ xã hội, tố cáo thể hiện sự bất bình của người dân. Dưới góc độ pháp lý, tố cáo lầ một quyền cơ bản của con người, của công dân, biểu hiện của một nền dân chủ, thông qua đó để công dân giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội. Quyền tố cáo là quyền hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật, như Luật Tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự…, là một trong những công cụ quan trọng để công dân đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, là kênh tiếp nhận nguồn thông tin của các cơ quan nhà nước trong việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, người tố cáo có nguy cơ bị người có hành vi vi phạm pháp luật đe doaaj, xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản với ý đồ ngăn cản, trả thù do việc cung cấp thông tin đó. Mặt khác, xuất phát từ bản chất của quan hệ tố cáo, nhất là tố cáo hành vi tham nhũng, người tố cáo là người yếu thế hơn người bị tố cáo do người bị tố cáo là người có chức vụ, quyền hạn nên các hình thức trả thù cũng rất tinh vi, khó lường. Về phía các cơ quan nhà nước để thu thập được đầy đủ, chính xác các thông tin từ người tố cáo, Nhà nước phải khuyến khích và đảm bảo an toàn cho người tố cáo. Đó là cách Nhà nước thể hiện rõ quyền lực và trách nhiệm của mình đối với công dân, ngăn chặn các hành vi cản trở, trả thù người tố cáo, bảo vệ kỹ cương, phép nước.
Đánh giá thực trạng tình hình bảo vệ người tố cáo trong thời gian qua cho thấy, người tố cáo không chỉ chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức như trước đây, mà hiện tượng công dân tố cáo quan chức nhà nước cũng không hiếm. Đặc biệt hiện tượng tố cáo xảy ra trong các loại hình doanh nghiệp, người lao động tố cáo người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động đang có xu hướng gia tăng. Mặt khác, tình trạng tố cáo xảy ra ở khắp các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ở mọi vùng miền đất nước. Tuy nhiên, pháp luật tố cáo quy định về đối tượng, phạm vi bảo vệ người tố cáo lại chưa mở rộng, đáp ứng kịp thời với việc phát triển đó. Người tố cáo thường ở thế yếu, bị phụ thuộc nhiều vào người tố cáo, nên rất dễ bị trù dập, trả thù, bị mất việc làm, bị đe dọa đến tình trạng, tài sản của mình và của người thân… Thực tế không ít vụ việc, người tố cáo đã phải gánh chịu những hậu quả đau xót đó. Nhiều trường hợp người tố cáo có tâm lý lo sợ đi tố cáo, có tình trạng “mũ ni che tai”, không tố cáo những vi phạm pháp luật khi nó không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của mình vì sợ liên lụy đến bản thân. Thậm chí nhiều người không giám tố cáo vì đối tượng sử dụng các thủ đoạn che giấu hành vi vi phạm bằng cách mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực. Đặc biệt, đối với các hiện tượng tham nhũng thì tâm lý này có phần còn nặng nề hơn vì những đối tượng tham nhũng là những người có chức vụ quyền hạn, địa vị ảnh hưởng trong xã hội còn người tố cáo thì ngược lại. Một thực tế trớ trêu là, khi người dân càng tích cực, chủ động thực hiện quyền tố cáo thì bản thân họ và người thân càng khó tránh khỏi sự trả thù, hầu hết họ đều bị thua thiệt và hậu quả phải trả giá rất đắt. Nhiều trường hợp, người tố cáo bị trả thù, trù dập, bị xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, thậm chí mất việc làm nhưng đã không được bảo vệ hiệu quả.
Thực trạng nói trên làm mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước, làm hạn chế khả năng phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước. Và có lẽ cũng vì những nguyên nhân trên cho thấy, tuy tổng dố việc tố cáo nhiều, nhưng số việc tố cáo được áo dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo trên thực tế lại quá ít. Theo Cục Chống tham nhũng củ Thanh tra Chính phủ từ năm 2011 đến 31/3/2015, các cơ quan có thẩm quyền chỉ giải quyết được 21 trường hợp được áp dụng các biện pháp bảo vệ, bằng 1/3 số đơn mà người tố cáo yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo
Quy định về các cơ quan bảo vệ người tố cáo: chống béo về chức năng
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo được giao cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau như: các cơ quan có trách nhiệm giải quyết tố cáo; cơ quan công an, cơ quan tổ chức; người tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo; ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan điều tra công an nhân dân và các cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân; tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao động và các cơ quan khác có thẩm quyền. Mặt khác, vấn đề này được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật Tố cáo, Nghị định 76/2012/NĐ-CP, Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật Phòng chống tham nhũng,…trong khi thẩm quyền của các cơ quan này còn hạn chế và chồng chéo. Về trách nhiệm của các cơ quan ở trung ương; không có hướng dẫn cụ thể về việc phối hợp của các cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính trong giải quyết tố cáo; không quy định cơ quan nào chủ trì trong việc phối hợp, không có cơ quan nào chuyên biệt bảo vệ người tố cáo nói chung và tố cáo tham nhũng nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc các quy định về bảo vệ người tố cáo chưa thật sự đi vào cuộc sống. chưa tạo nên thiết chếvững chãi, chắc chắn khiến người tố cáo yên tâm, dẫn đến vẫn còn nhiều tố cáo nạc danh, mạo danh.
Chưa có quy định về trình tự, thù tục tiếp nhận, thụ lý và giải quyết yêu cầu bảo vệ của người tố cáo
Dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) đã có những quy định chung về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo, tuy nhiên việc tiếp nhận, thụ lý và giải quyết yêu cầu bảo vệ người tố cáo và trách nhiệm của cơ quan nào phải thực hiệ thì chưa được thể hiện, ít nhất là về nguyên tắc của quy trình này. Đây cũng là vấn đề cần thiết nhằm đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như tính khả thi của cơ chế bảo vệ người tố cáo.
Các biện pháp, điều kiện bảo vệ người tố cáo còn mang tính định tính, chưa được cụ thể hóa
Các biện pháp, điều kiện bảo vệ người tố cáo hiện nay chỉ tập trung quy định ở Luật Tố cáo 2011 và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Tố cáo, Luật Phòng chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn kèm theo cũng là những văn bản quan trọng liên quan đến việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng, nhưng chưa có một nội quy nào quy định cụ thể vấn đề này. Nhìn vào các quy định đó có thể thấy, các biện pháp bảo vệ người tố cáo đã có nhưng chưa thực sự hoàn thiện và thống nhất, nội dung của nó còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều thuật ngữ sử dụng trong các quy định như “khi có căn cứ”, “nơi an toàn”, “nơi cần thiết” còn rất chung chung, khó xác định, mang tính chất định tính, dễ dẫn tới việc các cơ quan chức năng áp dụng tùy tiện hoặc không có cơ sở xác minh làm tiền đề cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo
Đây cũng là một hạn chế rất lớn của Luật Tố cáo 2011. Luật này quy định rất nhiều cơ quan tham gia bảo vệ người tố cáo, nhưng không quy định ai là chủ trì, ai phối hợp và cơ chế phối hợp như thế nào. Trong thực tế không ít trường hợp nội dung tố cáo được tiếp nhận và xử lý bởi nhiều cơ quan, đơn vị hoặc người tố cáo gửi đơn đến nhiều cơ quan khác nhau hoặc các cơ quan truyền thông đôi khi đưa thông tin thiếu kiểm chứng làm cho việc bảo mật thông tin trở nên mất ý nghĩa và việc bảo vệ người tố cáo trở nên khó khăn, phức tạp. Từ việc thiếu các quy định này dẫn đến hiệu quả công tác bảo vệ người tố cáo không cao, ảnh hưởng đến niềm tin của người tố cáo và của nhân dân.
Những điểm mới trong dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) về việc bảo vệ người tố cáo
Để góp phần hòa thiện cơ chế bảo vệ người tố cáo, dự thảo Luât Tố cáo sửa đổi lần này đã luật hóa nhiều vấn đề mới, nhất là đã cụ thể hóa, bổ sung nhiều nội dung cụ thể vào chế định bảo vệ người tố cáo.
Bên cạnh một số quy định chung về bảo vệ người tố cáo, dự thảo đã tập trung quy định cụ thể hơnnhững nội dung bảo vệ và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp như: bảo vệ bí mật thông tin ngời tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý giải quyết tố cáo, trách nhiệm bảo vệ bí mất thông tin về người tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, bảo vệ tính mạng, sức khỏe tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo, bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo trong trường hợp họ là cán bộ công chức, viên chức và trong trường hợp họ là người làm việc theo hợp đồng. Dự thảo Luật Tố cáo cũng đã bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo, bổ sung thêm quy định về việc quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, thời gian bảo vệ, chấm dứt việc bảo vệ và việc lập hồ sơ bảo vệ người tố cáo.
Những góp ý sửa đổi, bổ sung vài chế định bảo vệ người tố cáo trong Dự thảo Luật
Bổ sung các điều kiện đảm bảo thực hiện cơ chế bảo vệ người tố cáo
Qua đối chiếu với pháp luật hiện hành, chúng tôi nhận thấy, chương bảo vệ người tố cáo (Chương VI dự thảo Luật) có khá nhiều nội dung mới so với Luật tố cáo 201, nhưng không mới so với Nghị didnhhj 76/2012/NĐ-CP của Chính Phủ về việc hướng đẫn thực hiện một số điều của Luật Tố cáo. Nghĩa là dự thảo Luật đã luật hóa các nội dung bảo vệ người tố cáo từ Nghị định 76/2012/NĐ-CP. Điều này cũng cần thiết nhằm năng cao lực pháp lý của vấn đế này. Tuy nhiên, có phải nguyên nhân khiến cho cơ chế bảo vệ người tố cáo thời gian qua không đi vào cuộc sống là do hiệu lực pháp lý của các quy định trong Nghị định 76/2012/NĐ-CP quá thấp hay không? Có thể đúng một phần, nhưng theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu là xuất phát tự nội dung của các quy định đó khó thực hiện. Một trong nhưng hạn chế của việc cơ chế bảo vệ người tố cáo là nội dung của nó mới chỉ quy định mang tính chất nguyên tắc, chưa có một cơ chế ràng buộc trách nhiệm cụ thể của cơ quan, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền. Chưa quy định một trình tự, thủ tục vệ người tố cáo, chưa có chế tài xử lý việc vi phảm bảo vệ người tố cáo. Dự thảo Luật tố cáo lần này đã tiếp thu, sửa đổi được nhiều vẫn đề hạn chế nói trên nhưng vãn chư đầy đủ và cụ thể. Đặc biệt dự thảo Luật cũng chưa thấy quy định về việc danh kinh phí và nguồn nhân lực để phục vụ trực tiếp cho công tác bảo vệ người tố cáo. Vì vậy, cần đưa thêm nội dung này vào dự thảo Luật, làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai việc bảo vệ người tố cáo, đảm bảo tính khả thi của Luật
Quy định về việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ người tố cáo và quy chế phối hợp
Dự thảo Luật đã bổ sung trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo nhưng vần còn quá chung chung và chưa đầy đủ, chưa thấy quy định trách nhiệm bảo vệ người tố cáo của các cơ quan đơn vị, tổ chức khi tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo. Nhiều khi danh tính người tố cáo bị lọt ra ngoài ngay từ khâu đầy tiên này, nhất là đối với trường hợp đơn tố cáo gửi đến cơ quan, tổ chức không đúng thẩm quyền giải quyết, lại phải chuyển tiếp hoặc có trường hơp người tố cáo có nguy cơ bị đe dọa ngay từ khi chưa gửi đơn. Việc bảo vệ danh tính người tố cáo từ khâu đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, giúp người tố cáo an tâm, dũng cảm phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, cần có một cơ quan chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo. Căn cứ trên tình hình thực tế Việt Nam, pháp luật có thể giao chức năng chủ trì, điều phối và chuyên trách bảo vệ người tố cáo cho cơ quan công an, cụ thể là cho lực lượng cảnh sát. Pháp luật cũng cần có quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và điều kiện đảm bảo cho hoạt đồng của cơ quan chủ trì và các cơ quan tham gia phối hợp, theo đó cơ quan cảnh sát thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe tính mạng của người tố cáo, các cơ quan nội vụ, lao động tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Công đoàn lao động Việt Nam,… có trách nhiệm hỗ trợ bảo vệ vị trí công tác, việc làm cho người tố cáo.
Về trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo
Dự thảo luật mới quy định về trình tự thủ tục bảo vệ người tố cáo theo 3 nhóm như: bảo vệ bí mật thông tin, bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản,…và bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo. Điều này là hợp lý, tuy nhiên việc quy định sao cho phải đảm bảo đồng thời cả hai mặt: về phía cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý giải quyết tố cáo cần phải tuân thù theo một trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ và thận trọng, tránh sự tùy tiện; còn về phía người tố cáo thì thủ tục phải rất đơn giản, tạo ra sự thuận lợi tối đa để họ cung cấp mọi nguồn thông tin. Vì vậy, theo chúng tôi cần thiết phải ra soát lại các thủ tục để bảo vệ từng nhóm đối tượng kể trên để đáp ứng được nguyên tắc này, đồng thời cũng phải làm rõ được tính đặc thù, khác biệt về thủ tục trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ của từng nhóm đối tượng đó.
Theo quy định, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, ủy ban nhân dân nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức có liên quan khác. Tuy nhiên, trong thực tế,rất hiếm khi người giải quyết tố cáo đồng thời là người trực tiếp xác minh nội dung tố cáo mà thông thường là giao cho cơ quan thanh tra thành lập đoàn xác minh, nên khi người tố cáo có căn cứ chứng minh răng có thể bị gây nguy hại đến tình trạng sức khỏe…thì họ thường sẽ thông báo và yêu cầu đến người xác minh. Sau đó, người xác minh báo cáo lại người giải quyết tố cáo để chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo, điều này dẫn đến một số khó khăn như tính không kịp thời, đặc biệt là trong các tình huống phải khẩn trương bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ bảo vệ tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn.
Dự thảo Luật cũng chưa cụ thể hóa quy trình thời gian phối hợp, xác minh yêu cầu được bảo vệ của người tố cáo. Điều này có thể dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, làm chậm trể thời gian xác minh, đe dọa đến tính mạng sức khỏe của người tố cáo và người thân của họ.
Để đảm bảo sự thống nhất, phối hợp nhịp nhàng trong quá trình tổ chức thực hiện, theo chúng tôi cần phải xây dựng một quy trình bảo vệ người tố cáo. Cụ thể, quy định một trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết yêu cầu bảo vệ người tố cáo; thẩm tra xác minh yêu cầu của người tố cáo, đánh giá tình hình và giải quyết yêu cầu của người tố cáo; quy định rõ cơ quan có trách nhiệm nào phải xây dựng phương án bảo vệ người tố cáo; quy định cụ thể về nội dung, phương thức phối hợp giữa các cơ quan, quyền và trách nhiệm cụ thể, rõ ràng của các chủ thể tham gia… Trong trường hợp nếu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không bảo vệ được người tố cáo mà bản thân họ bị thiệt hại thì Nhà nước có chính sách đối với họ nhằm bồi thường thiệt hại.
Quy định này sẽ được quy định ở văn bản dưới luật. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý, dự thảo Luật cần phải quy định mang tính nguyên tắc, tạo thuận lợi cho công dân thực hiện quyền được bảo vệ.
Đối tượng bảo vệ cần mở rộng hơn
Dự thảo Luật quy định đối tượng bảo vệ gồm có: người tố cáo,người than thích của người tố cáo (bao gồm cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột). Trên thực tế, ngoài những đối tượng như quy định, còn có một số đối tượng khác cũng rất cần được bảo vệ nhằm góp phần quan trọng giải quyết vụ việc tố cáo, đó là những người cung cấp thông tin, hỗ trợ người tố cáo, người nắm giữ các thông tin, tài liệu quan trọng làm chứng cứ cho nội dung tố cáo. Việc bảo vệ các đối tượng này có liên quan và gắn liền với việc bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo. Mặc dù họ là những đối tượng có mức độ nguy hiểm không cao như người tố cáo nhưng không thể không có các biện pháp bảo vệ trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm sự công bằng cho những đối tượng này.
Dự thảo Luật cũng cần khẳng định dứt khoát phải bảo vệ ngời tố cáo cho dù họ có yêu cầu hay không yêu cầu để đề phòng sự chủ quan, sơ suất hoặc đổ lỗi cho nhau của cả người tố cáo và cơ quan tổ chức, người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo.
Quy định về bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo
Việc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo có thể coi là một nguyên tắc xuyên suốt quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, quá trình giải quyết tố cáo, nội dung tố cáo được tiếp nhận và xử lý bởi nhiều cơ quan đơn vụ tham gia của nhiều cán bộ công chức qua nhiều bước trình tự, thủ tục, vì vậy việc thực hiện bảo mật nội dung tố cáo và thông tin về người tố cáo có những khó khăn. Trong thực tế, người tố cáo thường gừi đơn đến nhiều cơ quan khác nhau, càng làm cho việc bảo mật thông tin thêm nhiều khó khăn. Việc thực hiện quy định kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo gặp nhiều khó khăn khi triển khai trong thực tế. Vì vậy, dự thảo luật cần nhấn mạnh trách nhiệm của cá nhân trong việc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo. Nghiêm cứu đổi mới các biện pháp bảo vệ, cho phép người tố cáo trong giai đoạn gửi đơn tố cáo có thể chưa nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình mà chỉ cần cung cấp thông tin đủ và được sử dụng một mã số riên để khi cơ quan có thẩm quyền muốn liên hệ thì có thể liên hệ được
Vai trò, trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ người tố cáo
Dự thảo Luật tố cáo sửa đổi cũng như Luật Tố cáo hiện hành mới chỉ quy định việc giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, còn chưa thấy quy định vài trò giám sát của các tổ chức xã hội khác. Vì vậy, chúng tôi đề nghị dự thảo Luật cần bổ sung quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ người tố cáo nói riêng, nhất là vai trò, trách nhiệm của tổ chức công đoàn và ban thanh tra nhân dân ở các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.
Tăng cường sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân bảo vệ người tố cáo tham nhũng bằng một hệ thống thiết chế liên kết với nhau tác động mạnh vào mặt đời sống xã hội. Đa dạng hóa công tác giám sát các đoàn thể và nhân dân; đổi mới và nâng cao chất lượng giám sát đối với các hoạt động nhà nước như: tiếp xúc cử tri, đối thoại trực tiếp, chất vấn, tranh luận, kiến nghị, tư vấn, phản biện, giám đinh, dư luận xã hội, thông tin, trưng cầu dân ý. Tạo điều kiện để hội luật gia, đoàn luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí… được tham gia giám sát suốt quá trình giải quyết tố cáo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan đó, vừa nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giúp đỡ, hỗ trợ, tư vấn cho người tố cáo thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
TS Đỗ Gia Thư
(Trích: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 5 (5/2017) – trang 26)