Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

TƯ VẤN XÁC ĐỊNH NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ.

Hiện nay, các quan hệ về thừa kế nói chung và các quan hệ về người không được hưởng di sản nói riêng ngày càng đa dạng. Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như việc thống nhất quản lí bằng pháp luật, Nhà nước ta đã ra quy định về vấn đề người không được quyền hưởng di sản.


Người bị truất quyền hưởng di sản

Truất quyền thừa kế là việc người để lại thừa kế không cho người thừa kế hưởng di sản của mình. Đây là một trong những quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 625 BLDS 2015 Theo đó, những người bị truất quyền chỉ là những người thừa kế theo pháp luật. Một người thừa kế theo pháp luật bị truất quyền hưởng di sản nếu trong di chúc, người lập di chúc nói rõ là truất quyền hưởng di sản của họ. Và đương nhiên khi đó, người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản sẽ mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định. Cần phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không được chỉ định trong di chúc. Cả hai trường hợp trên đều là người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản. Tuy nhiên, người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản có thể không phải người bị truất quyền còn người bị truất quyền là người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản. Thông thường, người lập di chúc sẽ chỉ định cho cá nhân, tổ chức hay Nhà nước là người hưởng di sản và cũng có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật mà không phải nêu lí do truất. Việc truất quyền thừa kế này phải được ghi rõ trong di chúc là truất quyền thừa kế của ai hay không cho ai hưởng di sản.

Bên cạnh đó, đối với những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc (quy định cụ thể tại Điều 644 BLDS ) vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế (bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo luật) cho dù đã bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Họ chỉ không được hưởng di sản nếu từ chối nhận di sản hoặc rơi vào một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.

Người bị tước quyền hưởng di sản

Khoản 1 Điều 621 BLDS quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản. Đó chính là những trường hợp bị tước quyền thừa kế do có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… của người để lại di sản và những người thừa kế khác, có những hành động không xứng đáng với bổn phận của mình. Việc tước quyền hưởng di sản này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí nhà nước. Theo quy định của pháp luật thì những người này không được quyền hưởng di sản. Những người này đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định họ là người thừa kế của người để lại di sản (vì họ thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản hoặc đã được người để lại di sản lập di chúc cho họ hưởng thừa kế). Đó là những trường hợp:

1) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản 1 điều 621)

Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không bị kết án thì sẽ không bị ràng buộc bởi điều này. Mặt khác, nếu một người đã bị kết án, sau đó được xóa án tích thì vẫn không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điều này.

* Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản

Khi có hành vi xâm phạm tính mạng và có bản án về hành vi đó của người có thể được nhận di sản thì ta không cần xem xét mục đích của việc xâm phạm đó có nhằm là hưởng di sản hay không mà vẫn tước quyền hưởng di sản. Tuy nhiên việc người đó bị kết án về việc xâm phạm tính mạng của một người không phải người để lại di sản thì không được tước quyền hưởng di sản.

* Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản

Sự ngược đãi, hành hạ, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản là những hành vi trái pháp luật, được thể hiện thông qua các hành động như mắng chửi, đánh đập, …Việc xác định hành vi ngược đãi, hành hạ, xâm phạm danh dự nhân phẩm như thế nào thì bị coi là nghiêm trọng thì hiện vẫn chưa được quy định. Dù vậy, ta không cần đi xác định tính nghiêm trọng mà chỉ cần dựa vào chính việc đã có bản án về hành vi đó làm căn cứ.

2) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản (Điểm b khoản 1 điều 621).

Có những trường hợp sau:

- Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ con và cha mẹ, người để lại thừa kế là cha mẹ của họ

Pháp luật có quy định về bổn phận của con là phải chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp bất luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào. Trên cơ sở nghĩa vụ nuôi dưỡng của con đối với cha mẹ thì có nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ. Khi con vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ theo quy định của pháp luật thì không được hưởng di sản do cha mẹ để lại.

- Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ cha mẹ và con, người để lại thừa kế là con của họ

Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái khi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Nếu cha mẹ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng trên của mình đối với con cái thì sẽ không được hưởng di sản của con để lại.

- Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ anh, chị, em - người để lại thừa kế là anh,chị,em của họ

- Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ ông bà và cháu - người để lại thừa kế là cháu của họ

3) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 621).

Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng nên đã có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác (giết người thừa kế khác). Người thừa kế khác ở đây có thể hiểu theo hai hướng:

- Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng

- Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng. Trong trường hợp này buộc phải là người thừa kế hàng phía trên.

Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của người thừa kế khác như sau:

- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác: với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế

- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác: không phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi không bị tước quyền hưởng di sản.

- Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này là lỗi vô ý, hoàn toàn không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế, nên người thực hiện hành vi này vẫn có quyền hưởng di sản

Điều đáng lưu ý ở đây, cũng giống như ở trường hợp không được quyền hưởng di sản đầu tiên, phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật thì người thực hiện hành vi giết người thừa kế khác đó mới bị tước quyền thừa kế.

Ngoài ra, việc áp dụng quy tắc này cũng còn tùy thuộc vào việc có minh chứng được hay không động cơ phạm tội của người thừa kế: hành vi đó có nhằm mục đích để chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế có tính mạng bị xâm phạm được hưởng nếu còn sống hay không?

4) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản (điểm c khoản 1 điều 621).

Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của cá nhân chính là quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối với người lập di chúc là hành vi trái pháp luật, do vậy, người có hành vi cản trở sẽ bị tước quyền hưởng di sản do người có di sản để lại.

Điều đáng lưu ý là, trong trường hợp người thừa kế có hành vi lừa dối người lập di chúc hoặc giả mạo di chúc,…; mà không nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di chúc thì chỉ áp dụng các biện pháp chế tài thông thường của luật dân sự như bồi thường thiệt hại chứ không áp dụng theo khoản 1 điều 621 BLDS.

Tuy nhiên, nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự tự do ý chí của các bên trong thừa kế và nhằm tôn trọng ý chí của người để lại di sản nên những người nói trên vẫn được hưởng di sản theo Khoản 2 Điều 621 BLDS: …, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam về những người không được quyền hưởng di sản theo quy định Bộ luật Dân sự 2015. Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam rất hân hạnh được đồng hành cùng quý khách hàng trong việc giải quyết mọi vấn đề pháp lí. Hãy liên hệ với chúng tôi để được sử dụng dịch vụ tư vấn một cách tốt nhất.

NTĐ

Để được tư vấn chi tiết vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]

Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn



Gọi ngay

Zalo