Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định bộ luật dân sự

Bồi thường thiệt hại ngoài đồng là một vấn đề nổi bật của pháp luật dân sự. Vì vậy điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài đồng được quy định như thế nào. Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây củaCông ty Luật HTC chúng tôi nhé!

Bồi thường thiệt hại là gì?

Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự tấn công bên trong hành vi gây ra thiệt hại phải giải quyết hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và thâm hụt về tinh thần cho bên bị tổn hại.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Hậu quả thực tế phải được bồi thường một cách bình thường và đáp ứng kịp thời

Khoản 1 Điều 585 quy định “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và đáp ứng kịp thời. Các bên có thể đồng ý về khoản bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một hoặc nhiều lần, trừ khi các trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Giảm mức bồi thường

Theo Kiếm 2 Điều 585 quy định “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thường xuyên có thể được giảm thiểu nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn đối với khả năng kinh tế của mình.” Điều này đảm bảo khả thi của bản án đã được quyết định của dự án, phù hợp với những điều kiện thực tế của các cấp độ trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài đồng.

Việc giải quyết bồi thường phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ lỗi của người bị tổn thương, người gây ra tổn hại (vô trọng, nhẹ nhàng) Tòa án phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định giảm bồi thường.

gây tổn hại xảy ra quá lớn nên khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây tổn hại là cơ sở để giảm bồi thường. Cần phân tích mức giảm bình thường để tạm dừng hoạt động này. Trong dự án này, người không có khả năng kinh tế trước khi mắc bệnh có thể tạm dừng dự án này

Trường hợp bồi thường không phù hợp với thực tế

Khi bồi thường không phù hợp với thực tế thì bị tổn thương hoặc gây tổn thương có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi bồi thường.

Mức bồi thường tổn thương có thể được các bên đồng tình hoặc giải quyết. Tuy nhiên, tính năng bồi thường đã được đồng ý và quyết định có thể thay đổi nếu theo yêu cầu của các bên thẩm mỹ "không phù hợp với thực tế" Việc xem xét các điều kiện thực tế và xác định sự phù hợp căn cứ vào yêu cầu của các bên, thực tế cần phải thay đổi tính năng bình thường như người được thường xuyên tăng thu nhập, phải chi phí bổ sung để khắc phục bệnh.. Việc xem xét tăng hoặc giảm tốc độ thường xuyên xác định tính xác thực.

Trường hợp bị tổn hại có lỗi gây tổn hại

Khi bên bị tổn hại có lỗi trong nguy hại gây tổn hại thì không được bồi thường thường xuyên tổn hại do lỗi của mình gây ra.

Bên cạnh có quyền, lợi ích bị xâm phạm.

Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường thường xuyên nếu tổn thương xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế tổn thương cho chính mình.

Điều kiện phát sinh trách nhiệm thiệt hại

Có thiệt hại xảy ra.

- Hậu hại là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đủ các điều kiện khác.

- Hậu hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, làm việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.

- Chỉ cần có thiệt hại sẽ phải bồi thường, vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi thường vì như vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.

- Các loại thiệt hại:

+ Sản hại về tài sản: biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm tốc tài sản, những chi phí để bùng nổ, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những tổn hại vật chất của người bị thiệt hại.

+ sâu hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất: gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm nhẹ do tổn hại về tính mạng, sức khỏe.

+ Sát hại do danh dự, nhân sản phẩm uy tín bị xâm hại: bao gồm chi phí hợp lý để phân vùng, khắc phục tổn thương, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm lốc do danh dự, nhân sản, uy tín bị xâm hại.

+ Tổn hại về tinh thần.

Đời sống thần thánh không thể có giá trị bằng tiền theo quy tắc giá trị ngang bằng trong trao đổi và không thể thu hồi được. Vì vậy, BLDS quy định người xâm hại phải ” bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị tổn thương, người thân thích của người đó phải gánh chịu.

Hành vi gây tổn hại là hành vi trái pháp luật

- Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức.

- Điều 584 BLDS quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân sản phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích pháp khác của người khác mà gây hại thì phải bồi thường” Điều luật này xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 BLDS ” Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi công cộng, quyền lợi lợi hợp hợp pháp của người khác.”

- Việc xâm phạm gây tổn hại có thể là hành vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường đường, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân sư.

- Hành vi gây tổn hại thông thường có thể xảy ra dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi đó mà đáng ra không thể thực hiện được các hành vi đó.

- Lỗi của người gâỵ ra tổn hại

+ Về nguyên tắc, một người bị áp dụng cưỡng chế nhà nước thì họ phải có hành vi vi phạm luật do lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên trong quan hệ dân sự có những trường hợp ngoại lệ là người không có hành vi trái pháp luật, không có lỗi vẫn phải cam kết trách nhiệm dân sự,..

+ Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây tổn hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc định tổn hại nguy hiểm ra.

+ Sai lầm vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành động của mình có khả năng gây tổn hại tổn hại, mặc dù dù phải biết hoặc có thể biết trước tổn thương sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây tổn hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

- Có mối liên hệ nhân quả giữa tổn hại và hành vi trái pháp luật

+ Hậu quả xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của tổn thương xảy ra. Ở đây có thể tìm thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản… là nguyên nhân và tổn hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là vấn đề rất phức tạp. Phạm trù nguyên nhân và kết quả là cặp phạm trù trong học. Nhân quả là mối liên hệ nội tại, khách quan và tất yếu giữa các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội, trong đó một là nguyên nhân và sau đó là kết quả.

+ Việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là mối liên hệ khách hàng đó. Nguyên nhân bao giờ cũng có kết quả trước và kết quả là hậu quả của nhân nguyên. Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa các xã hội hiện tại, trong đó con người sống và hoạt động phức tạp hơn nhiều so với các hiện tượng tự nhiên khác. Vì vậy, việc xem xét chỉ có ý nghĩa khi hành vi của con người và kết quả hậu quả của hành vi được đánh giá ở dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến hành vi của con người, liên quan đến con người vào thời điểm có hành vi và hậu quả xảy ra.

Việc xác định mối quan hệ giữa kết quả hành vi trái pháp luật và tổn hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Vì vậy, cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách cẩn thận, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.

Năng lực cam chịu bồi thường thiệt hại ngoài đồng

- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất bản phát ngôn “khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” Họ phải cam chịu trách nhiệm hành vi trái pháp luật của họ bằng tài sản chính của họ.

- Người chưa đủ mười lăm cánh gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì hãy lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ khi trường hợp quy định về Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý.

- Người đủ mười tám tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây tổn hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu tài sản của mình.

- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, người làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; if người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thông thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; Nếu người giám hộ chứng minh mình không có lỗi trong công việc giám hộ thì không nên lấy tài sản của mình để bồi thường.

- Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.

Bồi thường thiệt tổn ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Tưởng bồi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Bồi thường tổn hại trong tư pháp quốc tế (hay còn gọi là bồi thường tổn hại có yếu tố nước ngoài).

Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:

– Các bên chủ tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài đồng bao gồm các nguy hại và bên bị tổn thương có quốc tịch khác nhau hoặc nơi cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở hữu ở các nước khác nhau (đối với pháp nhân).

– Hành vi gây tổn hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi vi gây ra tổn hại xảy ra ở nước ngoài.

Đặc điểm bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài

- Thứ nhất, dấu quốc tế của chủ thể

Đặc điểm nổi bật đầu tiên của các quan hệ xã hội được tư pháp quốc tế điều chỉnh là yếu tố nước ngoài của các quan hệ này. Yếu tố nước ngoài đầu tiên phải kể đến đó là điểm khác biệt về chủ thể (chủ thể không cùng quốc tịch, không cùng nơi cư trú và cũng không có cùng trụ sở ở một quốc gia). Chủ thể đó có thể là cá nhân, pháp nhân, nhà nước.

- Thứ hai, dấu hiệu nơi xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một quan hệ dân sự cũng được coi là có yếu tố nước ngoài nếu việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài.

- Thứ ba, đối tượng dấu hiệu của quan hệ

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đây cũng là đặc điểm cuối cùng để xác định xem một quan hệ dân sự có phải là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài hay không.

Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài đồng có yếu tố nước ngoài trong luật Việt Nam.

Điều 687 BLDS năm 2015 quy định: “1. Các biện pháp được bảo vệ sát thương bên ngoài hợp đồng, trừ trường quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp nước không có thỏa thuận thì pháp luật của nơi sinh phát hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng 2. Trường hợp gây thiệt hại và bị thiệt hại ở nơi đó, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với nhân tại cùng một nước thì luật pháp của nước được áp dụng”

+ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ bồi thường thiệt hại diễn đàn ra giữa bên gây tổn thương và bị tổn thương, trong các nhân có một bên là cá, pháp nhân nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng nước của quan hệ này tồn tại ở bên ngoài, hoặc gây thiệt hại nguy hiểm ở nước ngoài.

+ Trường hợp gây tổn hại và bị tổn hại là các cá nhân có cùng nơi cư trú, hoặc gây thiệt hại là các pháp nhân có cùng nơi thành lập tại một nước thì luật pháp của nước được áp dụng

Dịch vụ chất lượng của cam:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam hoạt động với phương châm tận tâm – hiệu quả – uy tín, cam kết đảm bảo chất lượng dịch vụ, cụ thể thư sau:

- Đảm bảo thực hiện công việc theo tiến độ đã đồng ý, đảm bảo đúng thủ thuật đúng quy định pháp luật, đúng với quy tắc đạo đức và ứng xử của luật sư Việt Nam.

- Đặt quyền lợi khách hàng lên hàng đầu, nỗ lực hết mình để mang đến cho khách hàng chất lượng dịch vụ tốt nhất.

- Bảo mật thông tin mà khách hàng cung cấp, các thông tin liên quan đến khách hàng.

Rất mong được hợp tác lâu dài cùng sự phát triển của Quý Khách hàng.

Trân trọng!

(Người viết: Thúy Hiền/187; Ngày viết: 7/5/2022)


Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, Phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729;

Email: htcvn.law@gmail.com

Trang web: https://htc-law.com ; https://luatsuchoban.vn

------------------------------------

Bài viết liên quan:

Người gây tổn hại không phải bồi thường thiệt hại khi nào?

Trường hợp nào không có lỗi vẫn bồi thường thiệt hại?

Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

bồi thường thiệt hại thường xuyên do xây dựng gây ra




Gọi ngay

Zalo