Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

324

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

NHỮNG TRƯỜNG HỢP CẦN CÓ NGƯỜI GIÁM HỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

Xuất phát từ những nhu cầu, thực tế xã hội mà những quy định chi tiết về chế độ giám sát của Bộ luật Dân sự đã có phần đáp ứng yêu cầu cung cấp thiết bị từ thực tiễn cuộc sống, góp ý giải quyết hiệu quả những nhu cầu phần cần thiết của nhân dân liên quan đến việc làm giám hộ, tuy nhiên không phải ai cũng xác định được các quy định của pháp luật về giám hộ. Trong bài viết dưới đây Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam sẽ đồng hành động tương tự bạn đọc có thể tìm hiểu các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến các trường cần phải có người giám hộ.

I. Cơ sở pháp lý

Bộ luật Dân sự 2015

II. Nội dung tư vấn

1. Khái niệm về màn hộ

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 thì giám hộ là cá nhân, pháp nhân luật định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa chỉ định định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện công việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khả năng trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).

Giám đốc là chế độ quyết định giải quyết tình trạng của người có năng lực pháp luật dân sự nhưng không thể sử dụng hành vi của mình, thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình hay nói cách khác thì họ không có khả năng hoặc có hạn chế trong việc thực hiện năng lực hành động vì dân sự của mình.

Người giám hộ sẽ là người đại diện theo pháp luật của người được giám sát trong mối quan hệ với Nhà nước và trong hầu hết các giao dịch, trừ các giao dịch đơn giản nhắm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người được giám hộ. Người giám hộ theo quy định tại Tài 1 Điều 48 Bộ luật Dân sự 2015 có thể là cá nhân (cha, mẹ, con đã thành niên, anh, chị em, ông, bà và những người thân thích khác) hoặc cũng có thể là pháp nhân (gồm các tổ chức xã hội, từ thiện hay cơ quan Nhà nước).

Theo quy luật pháp luật, cụ thể là Điều 52, 53, 54 Bộ luật Dân sự 2015 có hai hình thức giám hộ là:

- Giám hộ đương nhiên: là hình thức giám hộ mà người giám hộ đương nhiên chỉ có thể là cá nhân bao gồm cha, mẹ, con đã thành niên, anh, chị em, ông, bà và những người thích khác.

- Giám hộ được bầu cử: là hình thức cử giám đốc theo trình tự luật định trong trường hợp không có giám sát đương nhiên. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có thể trở thành người giám hộ được cử.

2. Những trường hợp cần có người giám hộ

Theo quy định tại Cướp 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 thì người được giám hộ là:

- Người chưa thành niên (theo quy định tại Tài khoản 1, Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 là người chưa đủ 18 tuổi) không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, được cấp chế độ năng lực hành vi dân sự, Được cấp quyền của cha, mẹ đối con (là những trường hợp hợp buộc phải có giám hộ) hoặc được giám hộ dự án theo yêu cầu của cha mẹ do cha, mẹ không có điều kiện sóc, giáo dục người chưa thành niên đó.

- Ngoài ra người mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cần phải có sự trợ giúp từ người khác để thực hiện các quyền hợp pháp của mình cũng là những đối tượng bắt buộc cần có người giám hộ.

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 thì một người được coi là mất hành vi dân sự khi bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức thức, làm chủ được hành và Tòa án quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở luận giám định pháp y tâm thần.

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 thì được hiểu là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá vỡ tài sản của gia đình, được Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có giới hạn năng lực hành vi dân sự.

Cũng theo quy định định luật, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được hiểu là người thành niên làm tình trạng chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và trên cơ sở kết luận giáo pháp y tâm thần, Tòa án quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Những đối tượng nêu trên thì đều cần có người giám hộ theo quy định của pháp luật vì khi tham gia giao dịch dân sự, họ không thể tự mình mà phải thông qua người khác để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như không thể tự mình bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng sinh thái từ quan hệ pháp luật dân sự. Nhận thức được quan trọng trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể đồng thời để bảo vệ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế chế độ năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trong các quan hệ dân sự mà quy định về giám hộ đã được ghi nhận trong Bộ Luật Dân sự 2015 để áp dụng vào những trường hợp hợp trong thực tế.

Về nguyên tắc một cá nhân, pháp nhân có thể giám sát cho nhiều người. Một người chỉ có thể được làm giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu được quy định tại Bờ 2 Điều 47 Bộ luật Dân sự.

Trên đây là những nội dung tư vấn của chúng tôi về những trường hợp cần phải có người giám hộ theo quy định của pháp luật. Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam vui mừng đồng hành cùng khách hàng trong việc giải quyết mọi vấn đề pháp lý. Hãy liên hệ với chúng tôi để được sử dụng dịch vụ tư vấn tốt nhất.

(Trần Thị Mỹ Anh)

Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, Phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729; Email: htcvn.law@gmail.com

Trang web: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn


Xem thêm các bài viết liên quan:

Giao dịch dân cư của người chưa đủ 6 tuổi

Tư vấn pháp luật về giám sát



Gọi ngay

Zalo