TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Tranh chấp về đất đai rất đa dạng như tranh chấp về quyền sử dụng dất do lấn chiếm, tranh chấp sử dụng đất mà người sử dụng đất chiếm hữu ngay tình, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất ... Trong đó, việc giải quyết các vấn đề liên quan đến việc khởi kiện đòi quyền sử dụng đất rất phức tạp nên hôm nay, Công ty Luật HTC Việt Nam xin đưa ra một số ý kiến để giải quyết vấn đề trên, như sau:
1. Đối với trường hợp quyền sử dụng đất được chuyển giao cho người khác do thực hiện các chính sách đất đai của Nhà nước
Một số chính sách đất đai của Nhà nước trước đây như chính sách ra vào hợp tác xã, chính sách nhường cơm- xẻ áo, chính sách yêu thương đùm bọc lẫn nhau... Do thực hiện các chính sách đất đai của Nhà nước nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã chuyển giao cho người khác sử dụng.
Đối với các trường hợp này, nhà nước không thừa nhận đòi lại đất mà nhà nước đã lấy chia cấp cho người khác trang quá trình thực hiện chính sách đất đai trước đất.
Theo Điều 26 Luật đất đai 2013 quy định về bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất: “ Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
2. Đối với trường hợp quyền sử dụng đất khác
Chẳng hạn, người sử dụng đất cũ có đất trước đây do khai hoang, phục hoá, do cha ông để lại, thừa kế, tặng cho nhưng vì chiến tranh hoặc do làm ăn gặp khó khăn nên người sử dụng đất cũ đã chuyển đi nơi khác làm ăn, sinh sống. Khi giải phóng chủ đất không về quản lí sử dụng nên đã có một số người đã tự ý xây dựng, canh tác trên diện tích đất đó cho đến nay. Người đang sử dụng đất đã sử dụng đất này từ trước hoặc từ khi Luật đất đai năm 1987 có hiệu lực, một thời gian dài không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện đòi lại.
Khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa người sử dụng đất cũ và người đang sử dụng đất, cần làm rõ thời gian sử dụng của của người sử dụng đất cũ và người sử dụng đất mới, ai là người đứng tên kê khai đăng kí và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có thời gian thực tế trực tiếp sử dụng đất tranh chấp.
Theo khoản 1 Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.”. Trong trường hợp này, nếu người sử dụng đất cũ đã kê khai, đăng ký và được đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất hoặc sổ địa chính, cấp giấy chưungs nhận quyền sử dụng đất, Trong khi đó người đang sử dụng đất không có các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyến chiếm hữu, sử dụng đất thì người sử dụng đất cũ được công nhận quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp người sử dụng đất cũ không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất hoặc sổ địa chính, không thực hiện quyền quản lý, sử dụng của chủ sử dụng đất. Còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng ký và được đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất hoặc sổ địa chính; đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng trình tự, thủ tục việc kê khai, đăng ký, và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng qui định của Luật đất đaivà các văn bản pháp luật có liên quan . Theo khoản 1 Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản: “2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.” . Trong trường hợp này, yêu cầu đòi lại đất của người sử dụng đất cũ sẽ bị bác bỏ và công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đối với trường hợp người sử dụng đất cũ và người đang sử dụng đất đều được cấp giấy chứng nhận (cấp trùng nhau), nay các bên tranh chấp quyền sử dụng đất. Đối với trường hợp này, cần xác minh thời gian sử dụng của các bên, thu thập các tài liệu, chứng cứ về việc thực hiện thủ tục kê khai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, căn cứ pháp lí để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các bên và cần xác minh ý kiến của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận để làm rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng pháp luật không. Trên cơ sở đó, để đưa ra căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất cho bên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp.
Đối với trường hợp cả hai bên đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng trong quá trình liên tục, quản lí sử dụng đất cho đến nay, người sử dụng có kê khai, đứng tên trong số đăng kí ruộng đất, sổ địa chính. Trong khi đó, người sử dụng cũ không kê khai, đăng kí quyền sử dụng đất. Trường hợp này, để giải quyết vụ việc thì cần xác minh thời gian sử dụng đất của các bên, thu thập các tài liệu, chứng cứ về việc người đang sử dụng đất thực tế đã sử dụng đất trong thời gian bao lâu, người sử dụng cũ đã từ bỏ quyền sử đất của mình trong hoàn cảnh nào, từ bỏ từ thời gian nào. Làm rõ ai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về tranh chấp kiện đòi lại quyền sử dụng đất. Công ty TNHH Luật HTC Việt Nam rất hân hạnh được đồng hành cùng quý khách hàng trong việc giải quyết mọi vấn đề pháp lí về đất đai. Hãy liên hệ với chúng tôi để được sử dụng dịch vụ tư vấn một cách tốt nhất.
HTN.
------------------------------------------
Để được tư vấn chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn