Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

324

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

​Tổng hợp 20 bản án, quyết định giám đốc thẩm đáng chú ý về trách nhiệm liên đới trả nợ của vợ chồng

Tổng hợp 20 bản án, quyết định giám đốc thẩm định đáng chú ý về trách nhiệm liên đới trả nợ của vợ chồng

Ở Việt Nam, khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận thì sẽ xác lập nên quan hệ vợ chồng trong hôn nhân, từ đó xác lập các quyền và nghĩa vụ của hai bên theo luật định. Trong quan hệ giữa vợ và chồng thì một nghĩa vụ không thể nào không nhắc đến đó là nghĩa vụ liên đới hay còn được gọi với thuật ngữ khác đó là trách nhiệm liên đới. Song nhiều cặp vợ chồng lại chưa hiểu rõ về nghĩa vụ liên đới dẫn đến quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm. Bài viết dưới đây của Công ty Luật HTC Việt Nam sẽ cung cấp một số bản án, quyết định giám đốc xác minh đáng chú ý về trách nhiệm liên trả nợ của vợ chồng mà quý vị đọc cần lưu ý.

1. Bản án số 02/2018/DS-ST ngày 18/01/2019 của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang v ề việc làm tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”

Quý tín dụng nhân dân MB đồng ý ký hợp đồng tín dụng với ông D và bà T cho vay tiền hợp đồng tín dụng với số tiền vay là 1 tỉ đồng. Ông D bà T đã ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo khoản vay. Trong quá trình vay, ông D đã không đóng lãi và còn nợ gốc. Tín dụng nhân dân MB khởi kiện yêu cầu:Force ông D có trách nhiệm trả tiền nợ gốc và lãi đến ngày 4/11/2018 là 1.197.667.000 đồng, tiếp tục tính lãi đến khi ông D thanh toán hết nợ. Rút yêu cầu khởi động không yêu cầu bà T liên trả nợ với ông D và yêu cầu không tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp ký. Đã nhận được yêu cầu khởi động của lực lượng lao động đơn vị D phải trả tiền cho tín dụng nhân dân MB số tiền trên và đình chỉ một phần yêu cầu khởi động của tín dụng nhân dân MB.

2. Bản dự án số 211/2018/DS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Phú, Tỉnh Bến Tre về công việc “Tranh chấp hợp đồng góp ý kiến”

Chị E có tham gia chơi hụi với chị H, làm chị H là chủ hụi. Đến ngày 4/10/2018 chị H tuyên bố úp hụi, chị E có yêu cầu chị H trả lại cho chị E số tiền hụi 50 triệu đồng mà chị E đã đóng nhưng chị H và chồng chị H là anh Q không trả tiền cho chị. Số tiền hụi này chị H có sử dụng vào mục tiêu kinh tế chung cho gia đình nên đây là khoản nợ chung của chị H và chồng chị H là anh Q. Chị E yêu cầu Tòa án giải quyết quyết chị H và anh Q phải có nghĩa vụ liên bữa trả 50.000.000 đồng cho chị. Trong quá trình giải quyết quyết định tìm thấy chị H và đã thừa nhận điều này còn nợ chị E số tiền đúng như đơn khởi động sự kiện của chị và anh Q. Tòa án chị H và anh Q phải có nghĩa vụ liên trả lời cho chị E số tiền 50.000.000.

3 . Bản dự án số 269/2018/DS-PT ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về công việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi”

Các nguyên đơn gồm Võ Ngọc T1, Nguyễn Thị Kim N1, Phan Thị Minh T2, Nguyễn Ngọc D1, Hồ Thị N2, Trương Thị L1, Lê Thị Hồng G, Nguyễn Thị Bé C tham gia chơi dây hụi cho thiết bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X làm chủ hụi. Trong quá trình chơi hụi bà X và ông H2 có liên đới trả thù cho người chơi nhưng vì chậm chậm nên các nguyên đơn làm đơn tăng cường. Tòa án chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, buộc vợ chồng bà X ông H2 liên hoan trả tiền cho các nguyên đơn nợ hụi, liên đới chịu toàn bộ dự án phí dân sự sơ thẩm, sau đó ông H2 ảo phúc không đồng ý bản án sơ thẩm đã xét xử. Tòa cấp phúc thẩm nhận định ông H2 không có chứng cứ gì để chứng minh việc làm bà X chủ hụi là làm cá nhân bà X và không liên quan đến ông H2, ông H2 có tham gia du côn tiền hụi, tổ chức thăm viếng hụi dùm bà X. Tòa án xác minh không chấp nhận phản hồi của đơn vị H2 nguyên liệu chứng minh dân sự sơ đồ, buộc vợ bà X và ông H2 liên kết nợ hụi.

4 . Bản án số 93/2018/DS-PT ngày 20/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”

Ông P cho bà L vay tiền nhiều lần, các giấy tờ biên nhận là do ông viết và bà L ký và ghi tên, khi vay chỉ có bà L vay, ông C và bà L là vợ chồng và bà L vay tiền trên với mục đích sinh hoạt gia đình, mua thức ăn chăn, trả lãi… Nay ông yêu cầu ông C và bà L phải liên trả cho ông tổng tiền gốc đã vay và số tiền lãi. Tòa sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi động của ông P, lực lượng ông C bà L liên đới trả số tiền cho ông P. Sau đó ông C kháng báo toàn bộ bản án. Tòa án cấp Phúc thẩm xác định giữa ông P và bà L đã xác định hợp lý đồng vay tài sản có thời hạn và lãi suất. Đến hạn bà L chỉ được trả một phần lãi là vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Ông P yêu cầu khời kiện là có căn cứ. Việc bà L vay tiền trong thời kỳ hôn nhân, trong hợp đồng vay bà L cũng nêu rõ mục đích vay là để phục vụ cho gia đình nên ông C và bà L phải có trách nhiệm trả nợ phù hợp. Tòa cấp phúc thẩm tuyên không chấp nhận phản kháng của ông Lê Văn C giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

5. Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 22/1/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang v đề việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản”

Vợ chồng bà Cao Thị T1, Bùi Văn V làm chủ thảo nhiều dây hụi và vay tiền của bà T. Bà T Đòi nhiều lần nhưng ông V và bà T1 hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả lời. Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu bà T1, ông V phải trả: tiền hụi 161.400.000 đồng, tiền vay 150.000.000 đồng, với tiền vay yêu cầu tính lãi cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tính từ khi bà T1, ông V tăng lãi suất đến nay. Trả tiền một lần sau khi có hiệu lực pháp luật. Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi động của bà T1 và ông V liên đới trả cho bà T số tiền đã nợ. Bị đơn vợ chồng bà T1, ông V kháng. Ông V không đồng ý liên đới trả nợ hụi và tiền vay, bà T1 không đồng ý trả các khoản lãi. Tòa án cấp phúc thẩm nhận số tiền được tính theo năng suất là quy định đúng của pháp luật. Bà T1 cũng không cung cấp cho họ bằng chứng gì mới để chứng minh yêu cầu phản hồi của mình là có căn cứ. Ông V có kháng sinh nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử xem như ông V từ bỏ kháng sinh. Tòa án phúc thẩm tuyên bồi chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông V. Tòa án cấp phúc thẩm khẳng định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông V. Công nhận sự đồng ý của bà T và đại diện hợp pháp của bà T1 tại phiên tòa phúc thẩm, sửa một phần dự án dân sự thẩm định áo giáp bà T1 và ông V liên trả tiền cho bà T số tiền trên.

6. Bản dự án số 52/2017/HNgia-PT ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc làm “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”

Chị H và anh H1 kết hôn với nhau vào năm 2008 đã đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại nhà riêng, làm vợ chồng xây dựng trên phần đất của cha mẹ anh H1 cho. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm xảy ra thuân thường xuyên gây goổ và sau đó họ xin ly hôn tăng cường. Tòa cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu xin hôn hôn của chị H đối với anh H1; về con chung giao cho anh H1 nuôi dưỡng, chị H được quyền thăm nom; về nợ chung với nợ ngân hàng mỗi người có trách nhiệm trả 6.000.000đ. Sau đó VKSND thành phố T đã quyết định đề nghị kiến nghị An ninh thẩm định đề xuất hủy bỏ một phần án hôn nhân gia đình về phần giải quyết nợ chung. Tòa cấp phúc thẩm xác định Vợ chồng anh H1 chị H có vay ngân hàng và chưa vi phạm đồng đồng. Tuy nhiên tại phần quyết định của bản án sơ thẩm lại tuyên chiến vợ chồng anh H1 chị H phải liên tục trả nợ trong khi ngân hàng không có yêu cầu độc lập trong dự án. Tòa phúc thẩm tuyên bố hủy bỏ và đình chỉ một phần án hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã tuyên bố về trách nhiệm liên trả nợ.

7. Bản dự án số 53/2017/HNGia đình-PT ngày 01/12/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về công việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung”

Chị T và anh P kết hôn với nhau từ năm 1998 và đã đăng ký kết hôn. Từ khi phát hiện tình kiên cường chị T nhận thấy tình cảm hai bên không thể hàn gắn. Chị T yêu cầu ly hôn với anh P. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung và chị T được yêu cầu trực tiếp nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án xem xét. Về nợ chung: Không có nợ chung. Anh P trình bày vợ chồng có các khoản nợ chung và yêu cầu mỗi người có trách nhiệm trả một phần nợ. Chị T không có hệ thống nợ chung vì giữa hai người đã thân từ năm 2011 và trước đó không có phát sinh nợ chung. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi động của bà T, công nhận tình hôn hôn; Về con chung do bà T nuôi dưỡng, ông P không phải cấp dưỡng và được quyền chăm nom;Về tài sản chung không chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của anh P; Về nợ chung Anh P phải trả các khoản nợ, không chấp nhận yêu cầu bà T liên trả nợ. Sau đó anh Phô cáo là một phần bản án sơ thẩm về yêu cầu chia tài sản chung và trách nhiệm đối với nợ chung. Tòa án cấp phúc thẩm xác định những bằng chứng của P được đưa ra là không có cơ sở và không phù hợp. Tòa án tuyên bố Đình chỉ một phần xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng sinh anh P, không chấp nhận kháng sinh anh P yêu cầu chị T chia đôi tài khoản nợ chung, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

8. Bản án số 277/2017/DS-PT ngày 10/11/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”

Vợ chồng ông H bà B có cho vợ chồng bà L ông T vay tiền để chăn nuôi, tất cả những lần vay làm bà B trực tiếp giao tiền cho bà L. Tổng cộng bà L vay 03 lần là 45.000.000 đồng, tất cả những lần vay do bà B trực giao tiếp tiền cho bà L, khi vay không có mặt ông T, nhưng bà L vay để chủ, bà L đóng lãi đến tháng 11/2016 thì không đóng lãi nữa mặc dù bà nhiều Lần đến yêu cầu vợ chồng bà L, ông T trả số nợ trên nhưng ông T, bà L không trả. Bà B, ông H yêu cầu ông T, bà L cùng liên đới trả nợ với số tiền 45.000.0000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi động tiền nợ vay của bà B ông H đối với bà L quân bà L ông T phải liên tục trả nợ cho bà B ông H số tiền nợ, sau đó ông L bà T phản xạ bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xác định bằng chứng cung cấp bà B là căn cứ. Tòa phúc thẩm tuyên không chấp nhận phản kháng của bà Lông T và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

9. Bản dự án số 49/2017/DS-ST ngày 25/9/2017 của Toà án nhân dân huyện TH, tỉnh Long An Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”

Bà T cho bà N vay 100.000.000 đồng, không đồng ý lãi suất, thời hạn vay 15 ngày, mục đích vay bà N giải quyết công việc gia đình. Đến hạn bà N không trả cho bà T vì vậy bà T khởi kiện yêu cầu bà N và ông S liên đới trả 100.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Tòa nhận định bà T cho bà N vay 100.000.000 đồng bà N cho rằng bà N đã trả 40.000.000 cho bà T nhưng không được ông C là người đại diện theo ủy quyền của bà T thừa nhận. Bà N cung cấp giấy chứng nhận của ông Nguyễn Văn Nhoãn, văn bản của ông Nguyễn Thanh Sang cùng giấy chứng nhận của bà Trần Thị Gái với nội dung chứng minh bà N đã trả cho bà T 40.000.000 đồng nhưng tại các văn bản trên không xác định được ông Nhoãn, ông Sang, bà Gái là một cá nhân cụ cũng như các văn bản trên không chứng thực chữ ký của ông Nhoãn, ông Sang, bà Gái. Do đó những lời trình bày bằng văn bản của ông Nhoãn, ông Sang, bà Gái chứng minh bà N trả cho bà T 40.000.000 đồng là không có căn cứ vì vậy bà N còn nợ bà T 100.000.000 đồng tiền vay là đúng như lời trình bày của bà T. Bà N và ông S là vợ chồng, hiện đang sống phải cùng cam chịu trách nhiệm trả nợ cho bà T. Tòa án nhận yêu cầu khởi kiện của bà T đối với bà N và ông S, buộc bà Nông S có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền 100.000.000 đồng.

10. Bản dự án số 624/2016/DS-PT ngày 20/5/2016 của Tòa nhà nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”

Ngày 23/7/2013, ông H và ông D ký hợp đồng vay tiền số 0107/HĐVV/2013, theo đó, ông D vay 4.900.000.000 đồng trong thời hạn 2 ngày, lãi suất 2,74%/tháng, lãi suất quá hạn 4,1%/tháng. Ông D trả 791.000.000 đồng gốc là nguyên lãi đến ngày 26/3/2014. Nay ông H khởi kiện yêu cầu ông Dương trả 4.109.000.000 đồng nợ gốc, kèm tiền lãi từ ngày 26/3/2014 đến khi xét xử sơ thẩm với lãi suất 13,5%/năm. Do lãi suất quá cao nên ông D yêu cầu xác định lại tiền tính lãi và gốc. Tòa sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi động của ông Hà quân ông D trả số tiền vốn đã vay, bác bỏ yêu cầu của ông H về số tiền lãi, sau đó ông D có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản sơ đồ đã được xác minh về phần lãi từ ngày 26/3/2014. Tòa cấp phúc thẩm xác định số tiền vay là số tiền lớn nên quyết định cho vay và vay số tiền có thể ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của những người vợ tồn tại quan hệ hôn nhân với nguyên đơn và đơn. Cấp sơ thẩm không xác định được tài khoản tiền cho vay trên có thuộc tài sản riêng của ông H hay sản sản chung của vợ chồng ông H để xác định quyền lợi của vợ ông H. không xác định được ông D vay số tiền trên để sử dụng vào công việc kinh doanh riêng hay sử dụng lợi ích chung của gia đình. Tòa án Phúc thẩm tuyên bố hủy bỏ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ tòa án tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo đúng thủ tục.

Ngoài ra, bạn lưu ý đọc tham khảo thêm các bản án sau:

11. Bản án số 293/2016/DS-PT ngày 30/11/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

12. Bản án số 25/2016/DS-ST ngày 26/01/2016 của Tòa án nhân dân quận X, thành phố HCM Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

13. Bản dự án số 61/2016/DSPT ngày 12/01/2016 của Tòa nhà nhân dân thành phố TP HCM Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

14. Bản dự án số 1302/2015/DSPT ngày 28/9/2015 của Tòa nhà nhân dân thành phố HCM Về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng đặt phun, hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng vay tài sản”.

15. Bản án số 49/2015/DS-ST ngày 31/8/2015 của Tòa án nhân dân quận X, thành phố HCM Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

16. Bản án số 27/2015/DS-ST ngày 01/6/2015 của Tòa nhà nhân dân quận X Thành phố HCM Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

17. Bản án số 125/2015/DS-ST ngày 23/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố HCM Về việc “Đòi lại tài sản”.

18. Bản án số 483/2014/DS-GĐT ngày 28/11/2014 của Tòa án nhân dân tối cao Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

19. Bản án số 05/2011/DS-ST ngày 02/03/2012 của Tòa án nhân dân thành phố ST Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

20. Quyết định Giám đốc Thẩm phán số 798/2010/DS-GĐT ngày 15/12/2010 của Tòa án nhân dân tối cao Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Quý bạn đọc xem và tải tài liệu đầy đủ tại: 20 Bản án, quyết định giám đốc thẩm định về trách nhiệm liên trả nợ của vợ chồng

Rất mong được hợp tác lâu dài cùng sự phát triển của Quý khách hàng.

Trân trọng!

(Người viết: Nguyễn Minh Dương/197; Ngày viết: 08/5/2022)


Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam.

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, Phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729; Email: htcvn.law@gmail.com

Trang web: https://htc-law.com ; https://luatsuchoban.vn

-----------------------------------------------------------------------------

Bài viết liên quan:

- Hệ thống văn bản luật Việt Nam hiện hành về hôn nhân gia đình

- Nghĩa vụ trả nợ của vợ khi ly hôn

- Xác định nợ chung, nợ chung của vợ chồng

- Giải quyết tranh chấp trong đồng vay tài sản

- Quá trình hình thành tài sản chung của vợ chồng



Gọi ngay

Zalo