TƯ VẤN XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON TRONG TRƯỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN
Hiện nay, tỉ lệ các cặp vợ chồng vô sinh ngày càng cao. Ở nước ta, hàng triệu cặp vợ chồng có nhu cầu sinh con vẫn chưa thực hiện được ước mơ của mình. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, đặc biệt là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm dường như đã mang lại ánh sáng cho họ. Tuy nhiên, khác với các trường hơp sinh con thông thường, việc xác định quan hệ giữa cha mẹ và con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang những nát đăc trưng riêng. Vậy vấn đề xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ được giải quyết như thế nào?
Hiện nay, vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định khá chi tiết trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/1/2015 của Chính phủ, quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (viết tắt Nghị định 10/2015/NĐ-CP), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện, áp dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thấy rằng, quy định này vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
1. Thế nào là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Theo khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) năm 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Nói cách khác, đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có con.
2. Điều kiện áp dụng phương pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp:
2.1. Đối với căp vợ chồng vô sinh
Khái niệm “vô sinh” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”. Các nguyên nhân dẫn đến vô sinh có thể xuất phát từ người đàn ông và cũng có thể xuất phát từ người phụ nữ. Vô sinh có thể là nguyên phát, tức là từ trước đến giờ người phụ nữ hay người đàn ông chưa bao giờ có con, cũng có thể là thứ phát, tức là đã từng có con, nhưng sau đó mất khả năng này. Theo kết quả nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ vô sinh trên thế giới trung bình từ 6%-12%. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi có tỷ lệ sinh thấp nhất và tỷ lệ vô sinh cao nhất.
2.2. Đối với phụ nữ độc thân
Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, quy định: “Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Nghĩa là, tại thời điểm đó, người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân với bất kỳ ai. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hôn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này. Cuộc sống công nghiệp hiện đại không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
2.3. Người gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngân hàng tinh trùng lưu giữ tinh trùng trong các trường hợp sau:
- Người tình nguyện hiến tinh trùng.
- Tinh trùng của người chồng khi cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh.
- Người có nguyện vọng lưu giữ cá nhân.
2.4. Người nhận tinh trùng
2.4.1. Người phụ nữ độc thân
2.4.2. Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh
3. Hậu quả pháp lý trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
3.1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
3.1.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Theo quy định tại Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”. Đối chiếu với quy định tại Điều 88 Luật HN và GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.
Như vậy, đối với cặp vợ, chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì căn cứ xác định cha, mẹ, con được xác định trên nguyên tắc suy đoán pháp lý, đó là căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh, nhưng không hoàn toàn giống sinh con theo chu trình tự nhiên. Đây không chỉ là căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà còn là điều kiện bắt buộc để cặp vợ chồng được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: “vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai” và chỉ khi cặp vợ, chồng đáp ứng điều kiện vừa nêu thì mới được áp dụng. Do đó, trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản.
3.1.2. Đối với phụ nữ độc thân
Theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015 NĐ-CP: “Phụ nữ độc thân là người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Căn cứ để xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này chỉ dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của người phụ nữ độc thân đó. Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Theo đó, người phụ nữ sống độc thân đương nhiên là mẹ của đứa trẻ. Pháp luật hiện hành ngoài việc cho phép người phụ nữ độc thân được nhận tinh trùng từ người khác còn cho phép họ được nhận phôi trong trường hơp họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai. Việc quy định cho người phụ nữ đơn thân được phép nhận phôi thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật, bởi khi người phụ nữ độc thân khát khao được làm mẹ nhưng do không có noãn hay noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai, do vậy, dù có nhận tinh trùng của người khác thì họ cũng không thể thụ thai được nên lúc này họ có thể nhận phôi để được sinh con.
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra. Quy định này phù hợp với nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (khoản 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP): Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận.
3.1.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là điểm đổi mới tiến bộ của pháp luật hôn nhân và gia đình. Pháp luật cho phép cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ. Việc này đã mở ra cơ hội được làm cha mẹ thực sự cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Theo quy định tại Điều 94, Luật HN&GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ và đứa trẻ sinh ra.
3.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
3.3.1. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng
Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép suy đoán con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân sẽ có chung huyết thống với vợ chồng, do đó, sẽ là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
3.3.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người hiến
Đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến. Con sinh ra có chung huyết thống với người vợ nhưng không có chung huyết thống với người chồng. Mẹ của đứa trẻ là người vợ, người có chung huyết thống với đứa trẻ cũng là người sinh ra đứa trẻ. Trong khi đó cha đứa trẻ xác định căn cứ vào thời kỳ hôn nhân. Cha của đứa trẻ là người chồng hợp pháp của mẹ đứa trẻ trong thời kỳ mang thai hoặc sinh con. Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014, con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
(Đ.K. Linh)
Để được tư vấn chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn