TƯ VẤN GIẢI QUYẾT TRANH TÀI SẢN CHUNG VÀ NỢ CHUNG KHI LY HÔN THUẬN TÌNH
Trong cuộc sống, đôi lúc vì một lý do nào đó mà các cặp vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau, khi đó ly hôn sẽ là một hệ quả tất yếu. Sau khi vấnđề tình cảm đã không còn thì vấn đề phân chia tài sản cũng sẽ được đặt ra. Vậy vợ chồng phải giải quyết tài sản chung và nợ chung như thế nào?
Không giống với ly hôn đơn phương, khi ly hôn thuận tình các bên có thể dễ dàng thống nhất được vấn đề chia tài sản. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia làm đôi, nhưng có xem xét điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình, tính đến công sức đóng góp của các bên vợ chồng để hình thành và phát triển các tài sản chung của họ. Các bên chịu trách nhiệm liên đới đến các khoản nợ chung khi ly hôn...
Tuy nhiên, trong thực tế, một khi đã chạm đến vấn đề tiền bạc, ai cũng sẽ mong muốn mình nhận được phần lợi ích nhiều hơn, tranh chấp nảy sinh, phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án, vô cùng tốn kém, nhiều trường hợp tài sản sau khi chia và thi hành án xong cũng không còn lại bao nhiêu. Tranh chấp đa phần do các bên chưa hiểu rõ về các nguyên tắc chia tài sản, chưa phân định rõ được đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng…
Vậy khi giải quyết vấn đề tài sản cần lưu ý những gì?
1. Xác định tài sản chung, tài sản riêng
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, bao gồm: Thu nhập từ lao động, sản xuất, kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác của họ.
Khi chia tài sản chung, tài sản riêng hoặc tài sản được chia, hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của bên nào thuộc về bên đó, không được đem ra chia, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Khối tài sản nào còn lại mà không chia thì vẫn là tài sản chung của vợ và chồng.
Cho dù có việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại cũng không làm thay đổi hoặc chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật.
2. Nguyên tắc chia tài sản chung
Điều 59 Luật Hôn nhân & gia đình 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
3. Giải quyết quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn
Luật Luật Hôn nhân và gia đình quy định rằng vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện, bao gồm:
- Nợ phát sinh do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập giao dịch
- Nợ phát sinh do vợ hoặc chồng xác lập giao dịch để phục vụ nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống gia đình
- Nợ phát sinh do việc quản lý, sử dụng hoặc phát triển tài sản chung
- Nợ phát sinh từ việc bồi thường thiệt hại do con gây ra quy định của pháp luật
Khi chịu trách nhiệm liên đới về các khoản nợ thì vợ chồng dùng tài sản chung để xử lý hoặc theo thỏa thuận.
Về mặt pháp lý, sau khi ly hôn thì quan hệ vợ chồng chấm hết. Bởi việc chia tài sản chung và giao nuôi con đã được giải quyết. Trên thực tế vẫn có những trường hợp sau ly hôn mới phát hiện người chồng hoặc người vợ có tài sản dấu bên kia được tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân.
Trường hợp một bên phát hiện được bên kia có tài sản bí mật mà bên đó không chứng minh đó là tài sản riêng thì tài sản tẩu tán đó được coi là tài sản chung của vợ chồng và nếu có yêu cầu thì sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật.
_Đ.K. Linh_
Để được tư vấn chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam
Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]
Website: https://htc-law.com; https://luatsuchoban.vn